V. Tại sao tôi chọn Chúa?
Giới thiệu
Chúa Giêsu là Thiên Chúa tốt lành vô cùng, đáng yêu
quý vô cùng. Nhưng đối với bản thân tôi, tôi đã bị Ngài lôi cuốn theo Ngài suốt
đời, vì tôi yêu các khuyết điểm của Ngài.
Các bạn trẻ Việt Nam thân mến,
Hôm nay tôi vui vẻ đến Strasbourg, Pháp, để có mặt
với các bạn trong ngày lễ mừng kỷ niệm 200 năm Đức Mẹ hiện ra tại La-vang,
Quảng Trị và lễ Các Thánh Tử đạo Việt Nam.
Nhân dịp nầy, tôi tâm sự với các bạn lý do tại sao
tôi sung sướng gấp đôi khi có mặt tại thành phố trung tâm Âu châu nầy. Tôi đến
Strasbourg lần nầy ví như làm một cuộc hành hương, cảm tạ Chúa đã cho tôi ơn
được đi vào cuộc sống Chúa Ba Ngôi và làm con Hội thánh nhờ phép Rửa tội cách
đây 70 năm. Người ân nhân trao ân huệ đó cho tôi là linh mục Stoeffler, nhà truyền giáo người xứ Strasbourg
nầy; ngài có tên Việt Nam là cố Thể, làm linh mục chánh xứ họ đạo Phủ Cam, giáo
phận Huế, nơi sinh quán của tôi trong vòng 25 năm. Hôm nay tôi hân hạnh gặp
được người cháu gái của linh mục Stoeffler, hiện là phu nhân của ông Siegwalt xã trưởng Krautergersheim thuộc
vùng phụ cận thành phố Strasbourg.
Chúa đã đi bước trước để chọn tôi làm con Ngài: 70
tuổi làm người Kitô hữu, 45 năm làm linh mục và 31 năm làm giám mục. Suốt quảng
đời đó, có những lúc thăng, trầm, nhưng tôi luôn tràn đầy hạnh phúc vì Chúa đã
luôn hiện diện trong cuộc sống
"năm chìm bảy nổi" của tôi. Trong dịp Đại hội Truyền giáo tại St.
Pierre-Les-Lacs, ở giáo phận Auch, miền Tây-Nam nước Pháp, người ta mời tôi đến
chia sẻ niềm tin trong cuộc sống Kitô giáo. Câu hỏi họ đặt ra cho tôi là "tại sao tôi lại chọn Chúa Giêsu?" Tại sao tôi dâng hiến đời tôi cho Ngài, tôi đã
trả lời:
"Tôi đã
chọn Chúa Giêsu, vì tôi yêu các khuyết điểm của Chúa Giêsu".
Mới nghe đầu đề như vậy, chắc các bạn e ngại, và
còn khó chịu nữa; bây giờ tôi chia sẻ cảm nghiệm đó của tôi, để các bạn có dịp
đối chiếu lại với kinh nghiệm sống đạo của các bạn.
1. Chúa Giêsu kém trí nhớ!
Lúc sắp trút hơi thở, Chúa Giêsu có cuộc đối thoại
cuối cùng với hai người gian phi cùng bị treo trên thập giá cạnh ngài. Một
trong hai người đó thốt lên lời nầy với Chúa Giêsu: "Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi". Và
Chúa nói với anh ấy: "Tôi bảo thật
với anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên đàng" (Lc. 23,
42-43).
Chúa Giêsu không sưu tra lại lý lịch người đó để
nhớ xem hắn gian ác đến mức độ nào, không cân nhắc tội nặng, nhẹ để châm chước
hay tạm ra hình phạt thế nào đó cho thích đáng. Người gian phi kêu nài Ngài
nhớ, thì Ngài "nhớ" một
điều là thấy người ấy trước mắt, còn tất cả mọi điều gian ác trước đó Ngài đã
quên hết, quên đến độ ngay hôm đó hứa ngay Nước Thiên đàng cho anh ta. Các
thánh nói: tên nầy suốt đời ăn trộm, đến lúc chết nó ăn trộm nước thiên đàng
luôn!
Trong Phúc âm chúng ta gặp lại nhiều chứng tích về
việc Chúa Giêsu kém trí nhớ như thế. Nhưng qua chuyện ngụ ngôn người cha nhân hậu, sự kiện đó rõ ràng.
Thánh sử Luca kể rằng người con út trong hai con của cha già đã lấy hết phần
gia tài của nó, để bỏ nhà ra đi sống đời phóng đảng, quên cha, quên anh. Đến
khi tiêu hết tiền, gặp năm đói, thì quay trở về nhà, xin khai thú tội lỗi mong
cha già xét tình cha con mà tha thứ...
Người cha (là hình ảnh Chúa Giêsu), không kể đến tội cũ, chỉ trông ngóng chờ con; thấy
con đằng xa, thì chạy ra đón. Con có thú tội, thì cũng không cố nghe để hạch
hỏi tội cũ mà ra lệnh cho tôi tớ: lấy áo đẹp, giày tốt, nhẫn quý mang lại cho
cậu, làm thịt con bê béo dọn tiệc vì con ta chết mà nay nó sống lại.
"Anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng
thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để. Bấy giờ người con thưa rằng:
"Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với Cha, con chẳng đáng gọi là con
cha nữa...". Nhưng người cha liền bảo người giúp việc rằng: "Mau đem
áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay , xỏ dép vào chân cậu, rồi
đi bắt con dê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng!..." (Lc. 15,
20-23).
Chúng ta thấy ở đây trí nhớ của Chúa Giêsu dường
như không còn làm việc nữa! Ngài quên vô điều kiện, quên tức khắc tất cả quá
khứ không hay không tốt của ta, mỗi khi chúng ta quay trở về. Ngài chỉ nhớ mỗi
người là con Cha Ngài, là em Ngài, nên
khi ta quay lại gặp Ngài, thì tức khắc ta lại được mặc áo vinh hiển sự sống của
Thiên Chúa.
2. Chúa Giêsu không biết làm toán
Trong dụ ngôn con
chiên bị mất (xem Mt. 18,
12-14; Lc. 15, 4-7), chúng ta thấy
lối cư xử của Chúa Giêsu tỏ ra không biết tính toán. Một kẻ có 100 con chiên ở
giữa đồng trống mà mất một con, hẳn phải tính toán xem làm sao một con đi lạc
lại hơn 99 con còn lại. Không những Chúa Giêsu cho rằng 1 con đi mất cũng bằng 99 con còn lại, mà còn đi xa hơn
nữa: Ngài bỏ 99 con còn lại đấy để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất. Một mà
hơn 99, hẳn Chúa Giêsu không biết làm toán!
Trong chương trình rao giảng của Ngài, không phải
số lượng quần chúng đông đảo mà Chúa Giêsu tìm kiếm, nhưng là những con người;
và Ngài đã không tiếc thì giờ để trao đổi với từng người, giảng dạy cho một
người như chúng ta từng thấy trong cuộc đối thoại với người phụ nữ Samari trên
bờ giếng Gia-cóp (xem Gioan 4,
1-42).
3. Chúa Giêsu không sành luận lý
Chúa Giêsu không những không cân nhắc tính toán
trên số lượng, mà có lúc lời của Ngài đi ngược lại sự khôn ngoan bình thường
của con người.
"Khi nào
ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng kêu bạn bè, anh em hay bà con, hoặc
láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi.
Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt,
đui mù. Họ không có gì để đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc... (Lc. 14,
12-14).
Trong dụ ngôn về đồng bạc bị mất (xem Lc. 15, 8-10), người phụ nữ có 10 đồng, nhưng trong đêm lỡ đánh mất 1 đồng: "bà thắp đèn, quét nhà, moi móc tìm cho
bằng được." - Khi tìm được, thì
bất chấp giờ giấc nghĩ ngơi ban đêm của hàng xóm, bạn bè, mời họ phải đến chung
vui với mình.
Chúa Giêsu ví mình như người phụ nữ tìm đồng
bạc bị mất trong đêm; không cần suy
tính, luận lý là đủng đỉnh ngày mai sẽ tìm, dù sao thì cũng còn 9 đồng khác
trong tay; nôn nóng đem nguồn vui của mình cho người chung quanh không ngại sự
nghỉ ngơi trong đêm vắng. Chẳng qua vì Chúa là yêu thương, mà yêu thương của
Thiên Chúa cao hơn lý luận con của người.
"Giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội
lỗi ăn năn sám hối" (Lc. 15, 10).
4. Chúa Giêsu không biết kinh tế tài chánh
Chúa Giêsu đến để loan báo Nước Trời ở gần con
người, gần cuộc sống của họ. Thế mà khi giới thiệu Nước Trời với các môn đệ và
với người nghe Ngài nói, Ngài lấy dụ ngôn về Nước Trời như người chủ vườn nho
thuê thợ làm cho mình trong một ngày (xem Mt. 20, 1-16). Người chủ từ tảng sáng đã mướn thợ làm; rồi đến
giờ thứ 3, giờ thứ 6, giờ 11, mỗi giờ người ấy đều đi tìm mướn thêm thợ (giờ 11 trong lối nói của người Do Thái thời của
Chúa Giêsu tức là buổi cận chiều tối rồi).
Chiều tối đó, ông chủ, là hình ảnh Chúa Giêsu, bảo
người quản lý kêu thợ lại và trả cho mỗi người 1 quan tiền như nhau. Những kẻ
làm nhiều giờ trong ngày bực tức vì thấy ông chủ nầy không biết gì về kinh tế,
tài chánh cả, hơn nữa còn bất chấp lối tính toán và sự công bình thông thường:
"Nầy
bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thoả thuận với tôi là 1 quan
tiền sao?...Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ghen tức? Thế là những kẻ đứng
chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng
chót..." (Mt. 20, 13-16).
5. Chúa Giêsu làm bạn với kẻ tội lỗi
Không phải trong xã hội của người Do Thái vào thời
Chúa Giêsu còn tại thế, mà ngay giữa xã hội chúng ta, người ta khó lòng chấp
nhận chuyện người "đàng hoàng" lại giao du với lớp người được đánh
giá là không "đàng hoàng".
Thời bấy giờ người đồng hương với Chúa Giêsu cho
rằng hai giới đặc biệt không "đàng hoàng" là những quân thu thuế và
người tội lỗi, đặc biệt là các người gái điếm. Người tội lỗi bấy giờ còn được
xem là những kẻ không lành mạnh về cuộc sống thân xác, như người phung cùi, tàn
tật... Những người Pha-ri-siêu nhiều lần thắc mắc về thái độ sống của Chúa
Giêsu và nhắc nhở với các môn đệ Chúa:
"Sao Thầy của các anh lại ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi
như vậy?" (Mt. 9, 11). "Ông nầy đón
tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng" (Lc. 15, 2).
Theo các sách Phúc âm ghi lại, thì không những Chúa
Giêsu chỉ gặp gỡ, chào hỏi, hay bất đắc dĩ được mời ăn thì ngại lắm phải chiều
người ta, mà thực sự Ngài tự tìm tới nhà người thu thuế, và kẻ tội lỗi, làm
thân với họ và ăn ở với họ.
Ông Da-kêu là người "đứng đầu những người thu thuế" (Lc. 19, 2); khi biết Chúa Giêsu đi qua thành phố Giê-ri-cô, ông ấy sợ không chen
lấn nổi với đông đảo dân chúng, nên chạy ra đàng trước, trèo lên cây sung để
xem Ngài, chẳng qua vì ông rất lùn. Chúa Giêsu đi qua, nhìn lên cây ấy thấy ông
và nói ngay:
"Nầy ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà
ông!" (Lc. 19, 5).
Người chung quanh xào xáo:
"Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ" (Lc. 19, 7).
Chúa Giêsu tự đến để gặp gỡ Da-kêu và loan Tin
Mừng:
"Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà nầy" (Lc. 19, 9)
Và chúng ta đều biết Chúa đã chọn 1 trong 12 vị
tông đồ của Ngài là Mathêu, trước đó có tên là Lê-vi một người làm nghề thu
thuế.
Và để giải thích thái độ ngược đời của mình, chính
Chúa Giêsu đã nói rõ sứ mệnh của Ngài.
"Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Hãy về
học cho biết ý nghĩa câu nầy: Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì tôi không
đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi (Mt. 9, 12-13).
6. Chúa Giêsu thích ăn uống, tiệc tùng
Phúc-âm cũng cho chúng ta thấy sự kiện mỗi lần đến
nhà nào, gặp ai, đặc biệt là những người được xã hội xếp loại không "đàng
hoàng", Chúa Giêsu lại thường ăn uống. Ngài mở đầu sứ mạng rao giảng công
khai bằng việc dự tiệc cưới Cana miền Galilê (Gioan 2, 1), kết thúc cuộc gặp gỡ chung với các tông đồ trước khi đi vào cuộc khổ
nạn bằng bữa tiệc ở Giêrusalem gọi là
tiệc ly (Mt. 26, 17 và tìếp
theo).
Thế nhưng lịch sử nhiều tôn giáo và tâm thức nhiều
nền văn hoá không phải đã cho chúng ta thấy rằng nói đến thần thánh, đạo đức,
tôn giáo thì hẳn phải nói đến ăn chay
cầu nguyện hay sao!
Luca thuật lại rằng, sau bữa tiệc lớn tại nhà Lê-vi (tức thánh Mathêu sau nầy) những người Pha-ri-siêu và những người thông luật
nói với Chúa Giêsu: "Môn đệ ông
Gioan năng ăn chay cầu nguyện, môn đệ người Pha-ri-siêu cũng thế, còn môn đệ ông thì ăn với
uống" (Lc. 6, 33). Chúa Giêsu đã
dùng những bữa ăn để cứu người tội lỗi như Mađalêna, Da-kêu...
Cái mới của Chúa Giêsu làm cho người Pha-ri-siêu và
cả chúng ta khó hiểu đó là tất cả sứ điệp của Ngài, không còn phải là ăn chay
hay ăn tiệc, nhưng tiên quyết là Yêu
thương phát xuất từ tận đáy lòng mình. Như thánh Augustinô sau nầy tóm tắt
trong câu: "Hãy yêu rồi làm gì thì
làm" (Ama et fac quod vis).
7. Chúa Giêsu không giữ luật Do thái
Không những lui tới bạn bè, với kẻ tội lỗi, lại còn
hay dự tiệc với họ, Chúa Giêsu không giữ luật lệ của cộng đồng người Do Thái
đương thời. Ngài bất chấp luật phải rửa tay
trước bữa ăn, đi thẳng vào bàn tiệc nên "ông Pha-ri-siêu lấy làm lạ vì lúc đầu Ngài không rửa tay trước
bữa ăn" (Lc. 11, 38). Đặc biệt trong những ngày sa-bát, Ngài hay chữa
lành bệnh tật cho người ta, và điều đó đối với người Do Thái đương thời cho là
phạm luật. Phúc âm ghi lại nhiều sự kiện như thế, như việc chữa lành người bại
tay (Lc. 6, 8-11), chữa người mắc bệnh phù thủng (Lc. 14, 1-6), chữa lành một phụ nữ còng lưng (Lc. 13, 14)... Thánh sử Luca ghi rõ: "Ông trưởng hội đường tức tối vì Đức Giêsu đã chữa lành bệnh vào
ngày sa-bát (Lc. 13, 14). Ngài không giữ luật, và các môn đệ theo Ngài cũng
không giữ luật:
"Vào ngày sa-bát, Đức Giêsu đi băng qua một cánh đồng lúa; các môn
đệ đưa tay bứt lúa ăn. Nhưng có mấy người Pha-ri-siêu nói: "Tại sao các
ông làm điều không được phép làm trong ngày sa-bát" (Lc. 6, 1-2).
Nhưng trước những lời chỉ trích nầy, Chúa Giêsu trả
lời: "Con người làm chủ ngày
sa-bát" (Lc. 6, 9). Chúa Giêsu đến để làm trọn lề luật, để ban luật mới
là luật yêu thương, là luật có chiều kích nội tâm, để xoá bỏ những lối giải
thích lề luật rắc rối bên ngoài:
"Khốn cho các ngươi giả hình, như má tô vôi, bên ngoài trắng trẻo mà bên
trong thối tha" (Mt. 23,
13-36).
8. Chúa Giêsu như điên cuồng
Trong Toà Tổng trấn Phi-la-tô, lúc chịu xử án, Chúa
Giêsu bị lính của Tổng trấn cho choàng áo đỏ, đội vương niệm bằng gai để chế nhạo
như là kẻ điên cuồng. Nhưng không phải chỉ người ngoài, mà ngay cả Phê-rô,
người vừa được Chúa Giêsu cử sẽ làm đầu Hội thánh Ngài: "Anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng đá, trên tảng đá nầy, Thầy sẽ xây
Hội thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi..." (Mt. 16, 18), người được Chúa tin yêu như thế cũng không chịu
nổi những lời nói như điên dại của Chúa Giêsu: "Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ
mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống
lại" (Mt. 16, 21). Điên dại vì gọi môn đệ theo mình, đồng thời thông
báo mình phải chịu khổ đau, bị giết chết; và xem ra điên dại hơn nữa khi bảo
rằng chết sau ba ngày sẽ sống lại! Và suốt cả các cuốn Phúc âm trang nào cũng
làm cho chúng ta ngạc nhiên về thái độ và lời nói khác lạ của Ngài:
"Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ
nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em. Ai vả anh má bên nầy,
thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó
lấy áo trong. Ai xin thì hãy cho, ai lấy cái gì của anh, thì đừng đòi lại... (Lc. 6, 27-31).
Nói như thế, làm sao có thể nghe cho được, khi tâm
tư ta còn sống trong tâm trạng "măt đền mắt, răng đền răng"!
Và tôi xin kể cho các bạn kinh nghiệm của tôi về sứ
điệp "điên dại" nầy của Chúa Giêsu. Lúc tôi sống những năm tháng tù
đày tại quê nhà, có lúc những người canh tù tâm sự cho tôi hay, họ thắc mắc và
ngạc nhiên về thái độ vui cười, thân thiện của tôi đối với họ: trong hoàn cảnh
nầy làm sao có thể thanh thản và dung thứ như thế được! Tôi đã có dịp chia sẻ
các kinh nghiệm đó trong cuốn sách "Năm
chiếc bánh, và hai con cá", tôi vừa cho phổ biến trong năm nầy. Nhưng
ở đây tôi muốn nói, chính sự "điên dại" của tình yêu thương Thiên
Chúa đối với tôi, đối với mọi người là "khuyết điểm" làm tôi say mê
hơn cả; sự điên dại đó lôi kéo tôi bước
theo Chúa Giêsu!
9. Chúa Giêsu phiêu lưu
Một chương trình cứu chuộc toàn nhân loại, một dự
tính gửi người đi rao truyền Phúc âm cho mọi dân nước, mọi thế hệ, thế mà lại chọn
và đặt hết tín nhiệm, quyền hành cho Phê-rô, một người chài lưới bộp chộp, ít
học rồi còn sợ sệt chối mình nữa!
Và về phương cách truyền bá, rao giảng nước Thiên
Chúa, thì Chúa Giêsu lại dạy các môn đệ:
"Anh em đừng mang gì đi đường, đừng mang gậy, bao bị, lương thực, tiền
bạc, cũng đừng có hai áo" (Lc. 9, 3).
Phiêu lưu trong việc tuyển lựa các môn đệ, Chúa
Giêsu còn bị ngay các môn đệ Ngài nghi ngờ là quá phiêu lưu. Khi Chúa Giêsu
loan báo chương trình Ngài sẽ bị bắt nạp, bị giết chết và sẽ sống lại trong
ngày thứ ba, thì "Các môn đệ buồn
phiền lắm" (Mt. 17, 23). Khi Chúa nói với họ: "Nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con người, các ông không
có sự sống nơi mình" (Gioan 6, 53), thì "nhiều môn đệ của Ngài liền nói:
"Lời nầy chướng ta quá! Ai mà nghe nổi" (Gioan 6, 60). Và, vì thấy
lời giảng dạy của Chúa Giêsu khó nghe và phiêu lưu quá, nhiều môn đệ rút
lui. Nên Chúa quay hỏi nhóm 12 tông đồ "Cả
anh em nữa, anh em cũng bỏ đi sao?" (Gioan 6, 67).
Có lần khác, có người lại muốn đi theo Ngài làm môn
đệ, nên hỏi: "Thưa Thầy, Thầy đi
đâu, tôi cũng xin đi theo". Người trả lời: "Con chồn có hang, chim
trời có tổ, nhưng con người không có chỗ tựa đầu (Lc. 9, 58).
Và cuộc phiêu lưu tột đỉnh của Yêu thương nơi Chúa
Giêsu được diễn tả cô động nơi bài ca trong thư của Thánh Phaolô gửi giáo đoàn
Phi-líp-phê:
"Đức
Giêsu Kitô
Vốn dĩ là Thiên Chúa
mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,
nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang
mặc lấy thân phận nô lệ,
trở nên giống phàm nhân
sống như người trần thế
Người lại còn hạ mình,
vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,
chết trên cây thập tự (Phl. 2, 6-8).
10. Chúa Giêsu có những lời giảng dạy xem
ra mâu thuẫn
Mâu thuẫn vì Lời từ Thiên Chúa khác với lời chúng
ta.
Làm sao chúng ta thấy hợp lý được khi tuyên dương
Phúc cho kẻ nghèo, kẻ phải đói, kẻ phải khóc, kẻ bị người ta oán ghét (xem Lc. 6, 20-22).
"Ai muốn cứu mạng sống mình, thì phải mất; còn ai liều mất mạng
sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy" (Lc. 9, 24).
Làm sao có thể ví Nước Thiên Chúa, Nước của Đấng
toàn năng, vô tận với một hạt cải (xem Lc. 13, 18-19).
Mà làm sao có thể tuyên xưng là "Con Thiên Chúa, Đấng hằng sống"
lại phải chấp nhận sự chết và chết nhục nhằn trên Thập giá (xem Lc. 23, 70).
Ngày 12.10.1998, có một cuộc tĩnh tâm linh mục quốc
tế, tại thành phố Monterrey, nước Mexico: 91 giám mục, 1500 linh mục tham dự.
Lúc tôi vừa nói: Tôi yêu các khuyết điểm của Chúa Giêsu, các ngài nhìn nhau với
vẽ ngạc nhiên, bỡ ngỡ! Nhưng nói đến đâu các ngài lại cười đến đó, cuối bài các
ngài xúm lại quanh tôi và bảo: "Chúng
tôi cũng yêu các khuyết điểm của Chúa Giêsu".
Các bạn thân mến,
Bây giờ, sau khi chúng ta cùng nhau lược qua 10
khuyết điểm của Chúa Giêsu, 10 khuyết điểm ghi lại nơi các bản Phúc-âm, tôi lại
một lần nữa xác quyết với các bạn rằng: vì tôi yêu 10 khuyết điểm nầy của Chúa
Giêsu, nên chọn Chúa Giêsu làm Thầy, làm
Mẫu-mực tuyệt đối cho đời tôi. Tôi cũng tâm sự với các bạn rằng, cho đến
giây phút nầy, tôi không hề có một chút gì ân hận, Chúa Giêsu đã cuốn hút cuộc
đời của tôi. Vì Chúa là Tình Yêu đã
dẫn lối cho tôi đi, đặc biệt trong những ngày tháng tôi cảm thấy xao xuyến, bứt
rứt; chúng đã đem lại nguồn vui và hy vọng cho tôi, nhất là trong những giây
phút khổ đau, tưởng chừng như không thể chịu đựng nổi. Các bạn biết lý do tại
sao không? Vì 10 khuyết điểm đó phát xuất từ Tình yêu thương mà Thiên Chúa là cha chúng ta ban cho để chúng ta
được sống nhờ Chúa Giêsu:
"Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng
sống mình cho bạn hữu" (Gioan 15, 13).
Tình yêu đó không nhớ lỗi lầm, không tính toán,
không xét nét, không vị kỷ, không phê phán, không câu chấp, không gò bó, không
biên giới, không điều kiện; Tình yêu đó yêu điên cuồng đến độ phiêu lưu và hy
sinh cả mạng sống mình; tình yêu đó khác với mẫu mực nhỏ hẹp của xã hội và của
lối cân nhắc giới hạn của chúng ta. Chúa là Đấng trọn lành, làm sao có khuyết
điểm được, nhưng Chúa lại là tình yêu vô hạn, mầu nhiệm. Trí khôn loài người
không hiểu nổi, không tin nổi, nên gọi là khuyết điểm! Khuyết điểm ấy lên đến
cùng độ trên thánh giá. Cả 10 khuyết điểm cô đọng vào đó, khi người lính thách
đố Chúa: "Nếu ông thật là con Thiên
Chúa, hãy xuống khỏi Thánh giá để chúng tôi tin" "Chúa Giêsu
thinh lặng, lại còn cầu nguyện: "Xin
Cha tha cho họ..." Lạy Chúa lúc ấy Chúa không chết thì làm sao chúng
con được sống đời đời.
Tôi
khích lệ các bạn chọn lựa cuộc sống làm chứng 10 khuyết điểm tuyệt vời đó của
Chúa Giêsu.
Và để chấm dứt buổi chia sẻ nầy tôi xin kể cho các
bạn một sự kiện trong cuộc đời của một danh nhân thế giới đã từng chọn Chúa
Giêsu, chọn giáo huấn của Ngài, một giáo huấn mà ông ấy cho là kỳ lạ, mâu thuẫn
"Kitô giáo kỳ lạ" (Le Christianisme est étrange, Pascal, Pensées, No
537). Danh nhân ấy là ông
Blaise Pascal (1623-1662). Khi ông Pascal vừa qua đời vào tuổi 39, người giúp
việc trong gia đình xin người chị của ông cho phép mở gấu áo ông mặc lần cuối
để xem ông thu giấu cái gì trong ấy. Vì mỗi lần thay áo cho ông, chị giúp việc
thấy ông luôn mở gấu áo cũ lấy một cái gì trong ấy rồi lại tự may vào gấu áo
mới. Người chị của Pascal cũng như người giúp việc cắt gấu áo và thấy có một
miếng giấy nhỏ, trên ấy ghi vỏn vẹn câu sau đây:
"Sự sống
đời đời là hiểu biết và yêu mến Đức Kitô và Đấng đã sai Người... lửa, lửa,
lửa; nước mắt, nước mắt, nước mắt của
tình yêu". Đó là bí quyết của B. Pascal một văn hào, một triết gia,
một nhà toán học.
(Ghi lại bài
chia sẻ của Đức Tổng giám mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, sáng thứ bảy,
ngày 12.9.1998, tại nguyện đường Dòng Truyền-giáo Đức Mẹ Vô nhiễm (O.M.I),
Strasbourg, Pháp trong cuộc họp mặt "Niềm vui sống đạo" của các bạn
trẻ Việt Nam Công giáo sống tại Âu châu, do Trung-tâm Nguyễn-Trường-Tộ tổ
chức).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét